Địa lý Hà_Nam_(Trung_Quốc)

Hà Nam nằm ở trung hạ du Hoàng Hà, ở tây nam vùng bình nguyên Hoa Bắc (bình nguyên Hoàng-Hoài-Hải Hà). Hà Nam có tọa độ giới hạn trong 31°23′-36°22′ vĩ Bắc, 110°21′-116°39′ kinh Đông.[28] Hà Nam giáp với hai tỉnh Sơn ĐôngAn Huy ở phía đông, giáp với hai tỉnh Hà BắcSơn Tây ở phía bắc, giáp với tỉnh Thiểm Tây ở phía tây, giáp với tỉnh Hồ Bắc ở phía tây.

Địa chất

Cho đến tận các thời kỳ địa chất khá gần đây, các dãy núi ở phía tây Hà Nam tạo thành bờ biển của một vùng biển mà về bản chất là phần mở rộng về phía tây của Bột HảiHoàng Hải hiện nay. Biển này nay đã bị đất bùn theo các con sông và gió từ cao nguyên Hoàng Thổ bồi lấp, tạo thành bình nguyên Hoa Bắc và bồn địa Hoài Hà. Người ta ước tính rằng trầm tích của bình nguyên nay sâu khoảng 850 mét tại nhiều nơi. Nó là một phần của đới hút chìm lớn (một phần bồn trũng của lớp vỏ Trái Đất), kéo dài từ Hắc Long Giang đến Giang Tây. Đáy của đới này đang tụt xuống với tốc độ ngang bằng với quá trình lắng đóng.[29] Đất trồng tại Hà Nam được tạo thành chủ yếu từ canxi cacbonat (vôi) trong các tầng đất phù sa cứng. Do khu vực có lượng mưa tương đối thấp, chỉ có ít hiện tượng thẩm thấu. Vùng đất cao ở phía tây chủ yếu là đất vàng nâu, thoát nước tốt hơn so với đất vùng bình nguyên. Đất đai ở bình nguyên màu mỡ hơn, phù sa trải rộng khắp; nó có màu hơi vàng và xám, xốp, dạng hạt, và nghèo chất hữu cơ.[30] Từ khi lòng sông của Hoàng Hà cao hơn khu vực xung quanh, đã có nhiều trận lụt xảy ra, khiến đất đai toàn khu vực chịu ảnh hưởng mặn hóa và kiềm hóa. Kể từ năm 1949, đã có những nỗ lực nhằm cải tạo các vùng đất kiềm thành đất sản xuất.[30]

Địa hình, địa mạo

Tung Sơn tại Đăng Phong

Hà Nam có tổng diện tích là 167.000 km², chiếm khoảng 1,73% diện tích toàn Trung Quốc.[28] Diện tích đất thường dùng để canh tác tại Hà Nam là 108.017.700 mẫu.[28] Địa thế Hà Nam nói chung là tây cao đông thấp, bắc phẳng nam trũng, có địa hình bằng phẳng ở phía đông và có địa hình đồi núi ở phía tây và cực nam. Đông bộ và trung bộ của tỉnh là một phần của bình nguyên Hoa Bắc. Ở phía tây bắc, có một đoạn của Thái Hành Sơn nằm trên ranh giới của Hà Nam. Ở phía tây, Tần Lĩnh tiến vào Hà Nam từ phía tây và kéo dài tới một nửa chiều ngang của tỉnh, các nhánh của dãy núi này kéo dài về phía bắc và nam, Phục Ngưu Sơn (伏牛山) là dãy núi nhánh lớn nhất của Tần Lĩnh trên địa bàn Hà Nam. Ở xa về phía nam, Đại Biệt SơnĐồng Bách Sơn (桐柏山) chia tách Hà Nam với Hồ Bắc. Giữa Phục Ngưu Sơn và Đồng Bách Sơn ở nam bộ Hà Nam là bồn địa Nam Dương, rộng 120 đến 160 km, có hai sông thuộc hệ thống Hán Thủy là Bạch HàĐường Hà cắt qua, từ thời Hán trở đi thì bồn địa này trở thành một tuyến đường được sử dụng nhiều khi người Hán nam tiến từ Trung Nguyên xuống vùng trung du Trường Giang.[29] Vùng đồi núi chiếm 44,3% (vùng núi: 26,6%, vùng gò đồi: 17,7%[28]) diện tích của Hà Nam, vùng bình nguyên và bồn địa chiếm 55,7%.[31] Lão Nha Xóa (老鸦岔) thuộc địa phận Linh Bảo là điểm cao nhất toàn tỉnh Hà Nam, với cao độ 2413,8 mét trên mực nước biển; còn điểm có cao độ thấp nhất tỉnh là nơi Hoài Hà chảy ra khỏi địa phận, thuộc huyện Cố Thủy, với cao độ chỉ 23,2 mét.[28]

Khí hậu

Hà Nam thuộc đới khí hậu ôn đới ấm-cận nhiệt đới, ẩm ướt-bán ẩm. Khí hậu Hà Nam nói chung có đặc trưng là mùa đông rét và ít mưa tuyết, mùa xuân khô hạn và nhiều gió cát, mùa hè nóng và mưa nhiều, mùa thu quang đãng và có đủ ánh nắng mặt trời. Nhiệt độ trung bình năm của toàn tỉnh dao động từ 12 °C-16 °C, nhiệt độ trung bình trong tháng 1 là từ -3 °C đến 3 °C, nhiệt độ trung bình trong tháng 7 là 24 °C-29 °C.[32] Nhiệt độ bình quân của tỉnh nói chung thấp dần từ đông sang tây và từ nam lên bắc, có sự khác biệt rõ ràng giữa các vùng đồi núi và bình nguyên. Chênh lệch nhiệt độ giữa các khoảng thời gian trong năm và giữa ngày và đêm ở Hà Nam ở mức cao, nhiệt độ thấp nhất từng được ghi nhận trên địa bàn là -21,7 °C (ngày 12 tháng 1 năm 1951 tại An Dương), nhiệt độ cao nhất từng được ghi nhận trên địa bàn là 44,2 °C (ngày 20 tháng 6 năm 1966 tại Lạc Dương).[32] Lượng giáng thủy bình quân năm của Hà Nam dao động từ 532,5 mm đến 1380,6 mm, tập trung từ tháng 6 đến tháng 8. Mỗi năm Hà Nam có 1.848,0 đến 2.488,7 giờ nắng, 189-240 ngày không có sương giá.[31]

Sông ngòi

Đập Tam Môn Hiệp trên Hoàng Hà, ở ranh giới giữa Tam Môn Hiệp của Hà Nam và Bình Lục của Sơn TâyMột con sông tại huyện Đường Hà, nam bộ Hà Nam

Trên địa bàn Hà Nam có 1.500 con sông, thuộc lưu vực của bốn con sông lớn tại Trung Quốc: Hoàng Hà, Hoài Hà, Trường GiangHải Hà.[33] Trong đó, có 493 sông có diện tích lưu vực trên 100 km². Phần lớn các sông tại Hà Nam phát nguyên từ vùng núi tây bộ, tây bắc bộ và đông nam bộ.

Hoàng Hà chảy qua trung bộ Hà Nam, tổng chiều dài đoạn Hoàng Hà chảy trong địa phận tỉnh 711 km, diện tích lưu vực Hoàng Hà trên địa bàn là 36.200 km², tức 1/5 tổng diện tích toàn tỉnh.[33] Hoàng Hà chảy vào địa giới của tỉnh từ mạn tây bắc, chuyển hướng dòng chảy sang phía đông ngay sau khi nhận nước từ Vị Hà. Ngay sau đó, Hoàng Hà chảy vào Tam Môn Hiệp, hướng dòng chảy chuyển sang đông-đông bắc trong 130 km, tạo thành ranh giới tự nhiên giữa Hà Nam và Sơn Tây. Sau khi chảy qua Lạc Dương, lưu vực Hoàng Hà đều là bình nguyên, lòng sông bị nâng lên do bồi tích và thường xuyên gây ra lũ lụt. Vào mùa hè, tức vào lúc có lưu lượng nước lớn nhất, Hoàng Hà mang theo một lượng đất bùn khổng lồ, có nguồn gốc chủ yếu từ vùng cao nguyên Hoàng Thổ ở Thiểm Tây và Sơn Tây. Trước khi xây đập Tam Môn Hiệp, Hoàng Hà chảy nhanh qua hẻm núi này, mang theo đất bùng xuống vùng bình nguyên, song từ khi đập xuất hiện, tốc độ dòng chảy của sông đã được kiểm soát và không còn xuất hiện lũ lụt nữa.[30] Có điều đặc biệt là từ điểm hợp lưu với sông Vị đến lúc đổ ra biển, với khoảng cách 1000 km, Hoàng Hà chỉ có hai chi lưu tương đối nhỏ là Lạc Hà ở hữu ngạn và Tần Hà ở tả ngạn.[30]

Trong suốt lịch sử, để đối phó với mối đe dọa lũ lụt từ Hoàng Hà, người ta đã xây dựng các con đê, thường nằm song song và cách bờ sông từ 8 đến 13 km. Tuy nhiên, hậu quả là lượng đất bùn bị dồn ứ trong phạm vi giữa hai bờ đê, bồi tích lòng sông qua hàng thế kỷ, và cho đến nay thì nó đã cao hơn các vùng nông thôn xung quanh. Để đối phó, người ta lại cho xây đê cao hơn nữa, và khi các đoạn đê không chống chịu nổi (xảy ra ở một số phần của tỉnh trong hầu hết các năm), nước sông tràn xuống vùng bình nguyên và không thể quay trở lại lòng sông vốn đã cao hơn khi mực nước sông rút bớt, gây nên các trận lụt thảm khốc. Kết quả là gây ngập úng đất trồng, phá hủy mùa màng và nạn đói.[30]

Ranh giới lưu vực của Hoàng Hà và Hoài Hà gần như không thể nhận thấy được. Hoàng Hà đã hoàn toàn thay đổi dòng chảy của nó nhiều lần trong suốt ba thiên niên kỷ qua, đầu tiên nó chảy ra biển ở phía nam, song sau lại chuyển lên phía bắc của bán đảo Sơn Đông. Gần đây nhất, năm 1194, Hoàng Hà đổi dòng rồi đổ ra biển theo dòng chảy trước đó của Hoài Hà, ở bắc bộ Giang Tô ngày nay. Sau trận lụt Hoàng Hà năm 1897, con sông này lại đổi dòng, chuyển sang chảy qua Sơn Đông rồi đổ vào Bột Hải.[34][35] Khi đó, việc trệch dòng luôn bắt đầu từ đoạn giữa Trịnh Châu và Khai Phong tại Hà Nam. Năm 1938, quân đội Quốc Dân đảng đã cố tình làm trệch dòng chảy của Hoàng Hà về phía nam để ngăn bước tiến quân Nhật bằng cách cho nổ các con đê gần Trịnh Châu.[30] Hoàng Hà được khôi phục lại dòng chảy phía bắc từ năm năm 1948.[30]

Trung bộ và nam bộ Hà Nam thuộc lưu vực Hoài Hà cùng nhiều chi lưu của nó. Hoài Hà có lượng nước phong phú, dòng chảy chính trên địa bàn tỉnh dài 340 km, diện tích lưu vực trên địa bàn tỉnh là 88.300 km², tức khoảng 1/2 tổng diện tích toàn tỉnh.[33] Hoài Hà và các chi lưu phát nguyên từ khu vực tây nam của Hà Nam, chảy về phía đông vào An Huy, cũng nổi tiếng với nạn lũ lụt. Năm 1949, chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã cho tiến hành chương trình kiểm soát nguồn nước quy mô lớn đầu tiên của mình ở lưu vực Hoài Hà. Sáu đập nước nhanh chóng được xây dựng ở thượng du các chi lưu Hoài Hà tại Hà Nam, sau đó đã có đến hàng chục đập nữa được xây dựng, từ đó đã không có thảm họa nghiêm trọng nào xảy ra.

Ở bắc bộ Hà Nam có hai sông lớn là Vệ Hà (卫河) bắt nguồn từ Thái Hành Sơn thuộc huyện Tân HươngChương Hà (漳河) tạo thành một đoạn ranh giới tự nhiên với tỉnh Hà Bắc; hai sông này thuộc hệ thống Hải Hà. Ở tây nam bộ Hà Nam có các sông Đan Giang (丹江), Thoan Hà (湍河), Đường Hà (唐河), Bạch Hà (白河) chảy sang Hồ Bắc và thuộc lưu vực Hán Thủy, một chi lưu lớn của Trường Giang. Tổng lượng tài nguyên nước của toàn Hà Nam là 41,3 tỷ m³, lượng tài nguyên thủy năng đạt 4,905 triệu kW và đã khai thác được 3,15 triệu kW[33]

Sinh vật

Thảm thực vật tự nhiên của Hà Nam gồm có rừng rụng lá và miền rừng trên các bình nguyên, cùng rừng rụng lá và rừng lá kim trên vùng núi phía tây. Việc định cư tập trung, thâm canh ở vùng bình nguyên trong một thời gian dài đã dẫn đến việc phát quang cây cối để trồng trọt. Tuy nhiên, trên các dãy núi vẫn còn giữ lại được một số khu rừng. Sau năm 1949, đã có nhiều nỗ lực để trồng cây cho mục đích che phủ, lấy gỗ và các mục đích khác.[36] Hiện nay, Hà Nam có 197 họ thực vật có mạch với 3.830 loài, đã biết được 520 loài động vật hoang dã có xương sống sống trên cạn, trong đó có 90 loài động vật hoang dã được bảo hộ trọng điểm cấp quốc gia.[31]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hà_Nam_(Trung_Quốc) http://iwr.cass.cn/zjwh/201403/W020140303370398758... http://www.ccdy.cn/xinwen/content/2011-05/26/conte... http://www.china.com.cn/chinese/difang/692214.htm http://english.people.com.cn/200510/01/eng20051001... http://www.people.com.cn/GB/shenghuo/1090/2435218.... http://english.peopledaily.com.cn/200609/30/eng200... http://finance.sina.com.cn/roll/20110223/085394181... http://news.sina.com.cn/c/2008-02-26/150213478517s... http://xhd.hbdawu.gov.cn/xzsp/1909.html http://www.henan.gov.cn/